Chẩn đoán trực tiếp
Sinh thiết lấy các nốt dưới da hoặc trong cơ bóc tách soi dưới kính lúp hoặc kính hiển vi ở độ phóng đại thấp. Nếu có ấu trùng sán lợn thì chúng ta thấy ngoài lớp vở bọc đến dịch và có nhân trong nhân bao gồm đầu sán. Chúng ta thấy 1 vòng các móc xếp thành 2 hàng và xung quanh có 4 hấp khẩu.
Lúc xét nghiệm chỉ cần soi tươi và không cần nhuộm.
Sinh thiết lấy các nốt dưới da hoặc trong cơ bóc tách soi dưới kính lúp hoặc kính hiển vi ở độ phóng đại thấp. Nếu có ấu trùng sán lợn thì chúng ta thấy ngoài lớp vở bọc đến dịch và có nhân trong nhân bao gồm đầu sán. Chúng ta thấy 1 vòng các móc xếp thành 2 hàng và xung quanh có 4 hấp khẩu.
Lúc xét nghiệm chỉ cần soi tươi và không cần nhuộm.
Hiện nay để chẩn đoán ấu trùng sán lợn ở thể não người ta tiến hành chụp cắt lớp sọ não (CT scanner). Qua phim chụp các nốt ấu trùng sán lợn sẽ xuất hiện rõ nhờ đó thầy thuốc có thể đánh giá được tình trạng bệnh qua hình ảnh và số lượng ấu trùng sán lợn trong não.
Các chẩn đoán gián tiếp
Chẩn đoán huyết thanh học có nhiều phương pháp:
- Ngưng kết hồng cầu gián tiếp (IHA)
- Cố định bổ thể (CF)
- Miễn dịch phóng xạ (HIA)
- Miễn dịch huỳnh quang (IF)
- Miễn dịch men (Elisa)
Theo kết quả của Bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại học Y Hà Nội thì với kỹ thuật Elisa dùng kháng nguyên là nước nang ấu trùng sán lợn thì với nồng độ giới hạn dương tính là 1/200.
Các chẩn đoán bổ sung
- Chụp cộng hưởng từ nhân (RMI)
- Xét nghiệm nước não tủy
- Điện não đồ (EFG)
- Điện tâm đồ
- Khám mắt: soi đáy mắt
Các chẩn đoán gián tiếp
Chẩn đoán huyết thanh học có nhiều phương pháp:
- Ngưng kết hồng cầu gián tiếp (IHA)
- Cố định bổ thể (CF)
- Miễn dịch phóng xạ (HIA)
- Miễn dịch huỳnh quang (IF)
- Miễn dịch men (Elisa)
Theo kết quả của Bộ môn Ký sinh trùng Trường Đại học Y Hà Nội thì với kỹ thuật Elisa dùng kháng nguyên là nước nang ấu trùng sán lợn thì với nồng độ giới hạn dương tính là 1/200.
Các chẩn đoán bổ sung
- Chụp cộng hưởng từ nhân (RMI)
- Xét nghiệm nước não tủy
- Điện não đồ (EFG)
- Điện tâm đồ
- Khám mắt: soi đáy mắt
Nguyên tắc điểu trị
Bệnh ấu trùng sán lợn là một bệnh nguy hiểm người mắc bệnh này có thể đưa tới tử vong, đặc biệt là ở thể não. Tuy nhiên khó khăn khi một bệnh nhân mắc ấu trùng sán lợn thì khó biết được ấu trùng sán lợn có ký sinh ở não không, nếu chưa có chụp cắt lớp sọ não. Do đó một bệnh nhân có ấu trùng sán lợn ở dưới da thì phải có chỉ định điều trị ngay.
Trước khi điều trị ấu trùng sán lợn phải điều trị bệnh sán lợn trưởng thành ở ruột nếu có. Nếu một bệnh nhân còn có sán trưởng thành ở ruột thì nguy cơ của các đợt xuất hiện ấu trùng sán lợn ở trong cơ, tổ chức hang, ở não vẫn còn.
Qua kinh nghiệm điều trị các bệnh nhân còn có sán trưởng thành thì có nhiều trường hợp thấy xuất hiện các ấu trùng sán lợn mới không có.
Thuốc điều trị
Từ 1980 việc sử dụng thuốc praziquantel để điều trị bệnh ấu trùng sán lợn được sử dụng rộng rãi. Đến nay praziquantel được coi là thuốc có tác dụng tốt để điều trị.
Liều lượng praziquantel 10- 15mg/kg/24 giò X 7 ngày nghỉ 3 ngày uống tiếp 3 đợt trong 1 tháng. Kết quả tốt điều trị khởi nang sán và triệu chứng (Phạm Hoàng Thế, 1987). Các tác giả Nhật Bản cũng thưòng dùng liều lượng thấp này.
Một số tác giả chủ trương tiến hành liều cao 20-25 mg/kg/24 giò. Hiệu quả đạt 90% lành bệnh. Tuy nhiên vấn đề phản ứng phụ cũng tăng. Vì vậy điều trị liều cao rất cần có sự theo dõi của thầy thuốc ở bệnh viện.
Albendazol: Albendazol là một dẫn xuất của benzimidazol loại thuốc này được dùng chủ yếu điều trị các loại giun sán từ 1982.
Albendazol: được các tác giả dùng để điều trị bệnh ấu trùng sán lợn. Arabinda.M và Nibedita.B đã điều trị vối liều 15mg/kg/ngày trong 28 ngày kêt quả tốt.
Ở Việt Nam, Ngô Đăng Thục và Kiều Tùng Lâm (1992) đã điều trị bệnh ấu trùng sán lợn vối albendazol liều 15mg/kg/ngày trong 20 ngày, kéo dài 3 đợt, mỗi đợt cách nhau 20 ngày. Kết quả trên CT scanner 50% diệt hết nang sán não. Trong khi đó praziquantel là 86%.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét