Trichuris trichiura(Linné 1771). Đồng nghĩa: Ascaris trichiura Linné 177ly Trichocephalus hominis Schrank 1788, Trichocephalus suis Schrank 1788, Trichocephalus apri Ginelixi 1790, Trichocephalus dispa Rudolphi 1802, Masligodes hominis Zederl803, Trichocephalus crenatus Rudolphi 1809, Trichuris trichiura Stiles 1901.
Giun tóc được mô tả lần đầu tiên bởi Linné vào năm 1771. Chu kỳ của giun tóc được Grassi xác định năm 1887 và được Fulleborn hoàn chỉnh vào năm 1923. Tình hình nhiễm giun tóc trên thế giới được Cora tổng hợp năm 1938 và được đánh giá là loại giun phổ biến.
Tuy là loại giun phổ biến nhưng số lượng ký sinh trong cơ thể người thường không nhiều, tác hại không nghiêm trọng nên giun tóc được coi là giun thứ yếu.
Hình thể
Giun tóc có hình thể đặc biệt. Cơ thể giun tóc chia làm hai phần rỡ rệt: Phần đầu dài và nhở, chiếm 2/3 chiều dài toàn cơ thể, phần thân ngắn và phình to. Thực quản của giun tóc là một ông hẹp với tổ chức cơ ít phát triển, có thành mởng. Hậu môn ở phần tận cùng của đuôi.
Giun tóc có màu hồng nhạt hoặc trắng sữa. Giun tóc cái dài 30 – 50 mm, giun tóc đực dài 30 – 45 mm. Phân biệt giun tóc đực và cái thường dựa vào phần đuôi: đuôi giun cái thẳng, đuôi giun đực cong, cuối đuôi giun tóc đực có một gai sinh dục. Giun tóc cái chỉ có một buồng trứng.
Trứng giun tóc có hình thể đặc biệt, giống như quả cau bổ dạc, màu vàng đậm, vở dày, dạng hình nút ở hai đầu, kích thước 22 µm x 50 µm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét