Thrombidoidae thuộc lớp nhện, có hai lỗ thở ở phía trước thân và có 4 họ phụ, trong đó có họ phụ Trombiculidae với giống Thrombicula có thể truyền bệnh cho người với tên thường gọi là mò.
Hình thể: Con trưởng thành dài 1 – 2 mm, màu đỏ sáng hoặc đỏ nâu, có eo thắt ngang thân, có 8 chân và thân mình có nhiều lống hơn dạng ấu trùng. Ấu trùng mò có đặc điểm khác hẳn con trưởng thành. Ấu trùng nhở, kích thước khoảng 200 μm, có 6 chân, thân mình có nhiều lông và thường có màu đở da cam.
Sinh thái: Chu kỳ của mò gồm 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thanh trùng và con trưởng thành. Với điều kiện thích hợp, mò thường sống được khoảng một năm.
Sau khi nở từ trứng, ấu trùng bò lên cở hoặc những bụi cây thấp, đám lá mục, để đợi vật chủ (người hoặc động vật). Ấu trùng thường đốt người ở vùng thắt lưng, nách và bộ phận sinh dục. Ấu trùng bám chặt vào da của vật chủ để hút máu, sau đó chúng rơi xuống và chui vào đất phát triển thành thanh trùng, rồi thành con trưởng thành, sống tự do trong đất, cây cở. ở vùng nhiệt đối và cận nhiệt đối, các bụi tre là nơi mò rất ưa thích.
Hình thể: Con trưởng thành dài 1 – 2 mm, màu đỏ sáng hoặc đỏ nâu, có eo thắt ngang thân, có 8 chân và thân mình có nhiều lống hơn dạng ấu trùng. Ấu trùng mò có đặc điểm khác hẳn con trưởng thành. Ấu trùng nhở, kích thước khoảng 200 μm, có 6 chân, thân mình có nhiều lông và thường có màu đở da cam.
Sinh thái: Chu kỳ của mò gồm 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thanh trùng và con trưởng thành. Với điều kiện thích hợp, mò thường sống được khoảng một năm.
Sau khi nở từ trứng, ấu trùng bò lên cở hoặc những bụi cây thấp, đám lá mục, để đợi vật chủ (người hoặc động vật). Ấu trùng thường đốt người ở vùng thắt lưng, nách và bộ phận sinh dục. Ấu trùng bám chặt vào da của vật chủ để hút máu, sau đó chúng rơi xuống và chui vào đất phát triển thành thanh trùng, rồi thành con trưởng thành, sống tự do trong đất, cây cở. ở vùng nhiệt đối và cận nhiệt đối, các bụi tre là nơi mò rất ưa thích.
Phương thức truyền bệnh: mò truyền bệnh do đốt vật chủ. Trong một đợt, mò có thể ăn nhiều lần, trên nhiều vật chủ. Mầm bệnh qua mò có thể truyền lại cho những thế hệ sau của mò.
Những loài mò chủ yếu liên quan đến y học gồm: Thrombicula akamushi Thrombicula pallidum, Thrombicula deliensis và Thrombicula autummalis.
Vai trò trong y học:
+ Truyền bệnh: mò có thể truyền một số bệnh do Rickettsia và virus cho người nhưng chỉ có một bệnh quan trọng nhất là bệnh sốt mò (sốt phát ban bụi rậm).
+ Gây bệnh: gây tổn thương viêm da, ngứa, loét tại vị trí mò đốt.
Ghẻ (Sarcoptoidae)
Sarcoptoidae thuộc lớp nhện, không có ống thở mà thở qua da. Trong nhiều loài của Sarcoptoidae chỉ có Sarcoptes scabiei gây bệnh ghẻ ở người.
Hình thể: s. scabiei trưởng thành có hình
bầu dục, màu xám, miệng rất ngắn, lưng gở, có 8 chân, không có mắt. Hai đôi chân trước nằm hẳn về phía trước của thân, hai đôi chân sau nằm hẳn về phía sau. Tận cùng của một số đôi chân có mang ống hút. Con cái kích thước chừng 330 μm, có các ống hút trên đôi chân thứ nhất và thứ hai. Con đực kích thước nhở hơn, chừng 220 μm, có các ống hút trên đôi chân thứ nhất, thứ hai và thứ tư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét