Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Bệnh sinh và giải phẫu bệnh học

       Ngoài tổn thương cơ học do giun xoắn trưởng thành ở niêm mạc ruột cũng như tổn thương cơ học do ấu trùng khi xâm nhập vào các thớ cơ ở dưới màng cơ ra, sự mẫn cảm của cơ thể gây ra do ký sinh trùng đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của bệnh. Phản ứng dị ứng dẫn đến viêm mạch dị ứng với hậu quả là thiểu năng tuần hoàn cho các cơ quan và tổ chức tương ứng. Cuối cùng sự tiếp cận của giun xoắn với huyết thanh bệnh nhân gây ra phù da bì, đặc biệt viêm da và cơ.
Biến đổi giải phẫu bệnh đặc hiệu là ở tổ chức cơ: trong các sợi cơ thấy hiện tượng viêm thoái hóa.

giải phẫu bệnh học

Triệu chứng lâm sàng
Thời kỳ ủ bệnh của giun xoắn từ 10 – 25 ngày (hiếm dưới 10 ngày và trên 30 ngày). Thường là thời gian ủ bệnh tỷ lệ ngược với mức độ của bệnh: thời kỳ ủ bệnh càng ngắn thì bệnh càng nặng.
Khi ấu trùng giun xoắn vào cơ thể và trưởng thành ở ruột sẽ có hiện tượng viêm ruột dữ dội, xuất huyết ở ruột; bệnh nhân đau bụng dữ dội, ỉa chảy.
Lâm sàng của giun xoắn có 4 triệu chứng cơ bản:
Phù mi mắt: Có thể nói phù mi mắt là dấu hiệu đặc trưng của bệnh. Đôi khi phù toàn bộ đầu. Cũng có những trường hợp phù lan xuống cổ và chi trên. Đôi khi phù thường phối hợp với các triệu chứng khác, thường là sốt cao và triệu chứng toàn thân khác. Phù mi cổ thể kèm theo phù và chảy máu kết mạc.
Đau cơ: Đau cơ là triệu chứng đứng thứ hai thường gặp. Đau xuất hiện khi bệnh nhân thở sâu và ho, khi nhai, nuốt, đại tiện; đau cả ở mặt và cổ… Đau xuất hiện cả khi vận động chủ động, bị động hoặc khi ăn. Đôi khi đau chói khi vận động, dẫn đến sự co cứng cơ. Hiếm hơn, bệnh tiến triển thành nhược cơ. Cùng với đau là nhiệt độ tăng cao.
Sốt: Thân nhiệt tăng dần dần và sau 2 – 3 ngày thì đạt tới tôi đa 39 – 40°c. Trong trường hợp nhiễm nhẹ, bệnh có thể tiến triển với sốt âm ỉ.
Tăng bạch cầu ái toan: Là một trong những dấu hiệu quan trọng trong chẩn đoán giun xoắn. Bạch cầu ái toan tăng trong những ngày đầu của bệnh (thậm chí trong thời kỳ ủ bệnh) và tăng cao nhất vào tuần thứ ba của bệnh.
Thể bệnh nhẹ, số lượng bạch cầu ái toan tăng 15 – 30%, còn trường hợp nặng, bạch cầu ái toan tăng 50 – 60% (có tác giả nêu tới 93%). Trong những trường hợp rất nặng với những biến chứng, đôi khi không thấy bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên. Đó là dấu hiệu tiên lượng xấu.
Bạch cầu ái toan tăng kéo dài trong 2 – 4 tháng sau khi bệnh bình phục… Ngoài những triệu chứng cơ bản nói trên, còn thường thấy xuất hiện trên mặt da những nốt ban kiểu mày đay, đa dạng, chảy máu.
Các xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy: trong bệnh giun xoắn, protein máu tăng, albumin giảm, a2 , Y tăng; Ca, K; C1 máu giảm.
Thống thường bệnh giun xoắn tiến triển trong 2 – 3 tuần, cao điểm của bệnh vào cuối tuần đầu. Ở trẻ em, bệnh tiến triển nhẹ hơn so với người lớn.
Trong những thể bệnh nặng (nhiễm nhiều và cơ địa dị ứng) thường xảy ra các biến chứng vào tuần thứ 3, thứ 4 của bệnh: viêm cơ, viêm phổi, viêm não, làm bệnh nhân có thể tử vong. Tùy theo mức độ nhiễm, tỷ lệ tử vong thay đổi từ 6 – 30%.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: sán lá máu, bệnh giun sán

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét