Yếu tố nguy cơ nhiễm
Tình hình phân bố dịch tễ của sán lá ruột phụ thuộc vào tình hình sinh hoạt và khung cảnh địa lý của từng vùng. Những vùng có nhiều hô ao, ở hồ ao có nhiều cây thủy sinh, nhất là những cây thủy sinh lại được sử dụng làm thức ăn cho người hoặc gia súc thì dễ có bệnh.
Tình hình phân bố dịch tễ của sán lá ruột phụ thuộc vào tình hình sinh hoạt và khung cảnh địa lý của từng vùng. Những vùng có nhiều hô ao, ở hồ ao có nhiều cây thủy sinh, nhất là những cây thủy sinh lại được sử dụng làm thức ăn cho người hoặc gia súc thì dễ có bệnh.
Phân bố bệnh sán lá ruột
Tình hình nhiễm sán lá ruột tập trung chủ yếu vào vùng Đông Á và Trung Á. Theo nhiều thống kê điều tra, ổ bệnh chính là Trung Quốc. Tình hình nhiễm bệnh cao ở những vung Hương cảng, Quảng Đông, dọc sông bò sông Dương Tử, tỷ lệ bệnh thay đổi từ 5 – 10%. Ở các thành phố như Thượng Hải, tỷ lệ bệnh cũng cao.
Ở Ấn Độ Thái Tari Malayxia, Đài Loan cũng rải rác những ổ bệnh sán lá ruột.
Ở Việt Nam, những thông kê năm 1913 của Brau, Bruyant và Noc thấy có tỷ lê cao nhưng sau 1924 đã giảm. Ở miền Bắc Việt Nam, bệnh hiếm gặp (Mathis và Leger, 1911; Galliard và Đặng Văn Ngữ, 1941). Tuy bệnh ở người hiếm gặp nhitng bệnh ở lợn rất phổ biến; ở Việt Nam có khi tói 80% lợn nhiễm sán.
Tình hình nhiễm sán lá ruột tập trung chủ yếu vào vùng Đông Á và Trung Á. Theo nhiều thống kê điều tra, ổ bệnh chính là Trung Quốc. Tình hình nhiễm bệnh cao ở những vung Hương cảng, Quảng Đông, dọc sông bò sông Dương Tử, tỷ lệ bệnh thay đổi từ 5 – 10%. Ở các thành phố như Thượng Hải, tỷ lệ bệnh cũng cao.
Ở Ấn Độ Thái Tari Malayxia, Đài Loan cũng rải rác những ổ bệnh sán lá ruột.
Ở Việt Nam, những thông kê năm 1913 của Brau, Bruyant và Noc thấy có tỷ lê cao nhưng sau 1924 đã giảm. Ở miền Bắc Việt Nam, bệnh hiếm gặp (Mathis và Leger, 1911; Galliard và Đặng Văn Ngữ, 1941). Tuy bệnh ở người hiếm gặp nhitng bệnh ở lợn rất phổ biến; ở Việt Nam có khi tói 80% lợn nhiễm sán.
Thương tổn cơ thể bệnh học
Thường những trường hợp nhiễm sán mới có thương tổn cơ thể bệnh học rõ rệt, niêm mạc ruột non thường bị phù nề và viêm. Tình trạng phù nề và viêm có thể lan tới tận ruột già. Niêm mạc ruột có thể bị sùi và có những đám sung huyết hoặc xuất huyết tương ứng với vị trí bám của sán. Ruột có thể bị giãn và gây nên những rối loạn tiêu hóa. Đối với những trường hợp nhiễm sán qua nhiều, ruột có thể bị tắc. Nếu những tổn thương do sán có thêm bội nhiễm do VI khuẩn, có thể xảy ra các hiện tượng viêm và sưng của những hạch mạc treo Ngoài những thương tổn tại ruột là nơi ký sinh của sán, những độc tô” do sán tiết ra sẽ gây những thương tổn và rối loạn chung. Toàn thân có thể bị phù nề ngoại tâm mạc bị tràn dịch, lách có những biến đổi tổ chức. Bệnh nhân thường bị thiếu máu, số lượng hồng cầu giảm, huyết cầu tô” giảm. Bạch cầu ái toan tăng lên, có thể tới 15 – 20%. Những thương tổn cơ thể bệnh học xảy ra một phần do sán gây tổn thương ở ruột, chiếm thức ăn, một phần khác do những độc tô” của sán tiết ra.
Thường những trường hợp nhiễm sán mới có thương tổn cơ thể bệnh học rõ rệt, niêm mạc ruột non thường bị phù nề và viêm. Tình trạng phù nề và viêm có thể lan tới tận ruột già. Niêm mạc ruột có thể bị sùi và có những đám sung huyết hoặc xuất huyết tương ứng với vị trí bám của sán. Ruột có thể bị giãn và gây nên những rối loạn tiêu hóa. Đối với những trường hợp nhiễm sán qua nhiều, ruột có thể bị tắc. Nếu những tổn thương do sán có thêm bội nhiễm do VI khuẩn, có thể xảy ra các hiện tượng viêm và sưng của những hạch mạc treo Ngoài những thương tổn tại ruột là nơi ký sinh của sán, những độc tô” do sán tiết ra sẽ gây những thương tổn và rối loạn chung. Toàn thân có thể bị phù nề ngoại tâm mạc bị tràn dịch, lách có những biến đổi tổ chức. Bệnh nhân thường bị thiếu máu, số lượng hồng cầu giảm, huyết cầu tô” giảm. Bạch cầu ái toan tăng lên, có thể tới 15 – 20%. Những thương tổn cơ thể bệnh học xảy ra một phần do sán gây tổn thương ở ruột, chiếm thức ăn, một phần khác do những độc tô” của sán tiết ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét